Những hạn chế của BIOS

Nếu ổ cứng hiện tại của bạn là ổ 8GB hoặc nhỏ hơn, hệ thống của bạn có thể không có khả năng điều khiển một ổ đĩa lớn hơn nếu không nâng cấp BIOS.

Hầu hết các ổ đĩa ATA được gửi kèm với một đĩa cài đặt chứa phần mềm thay thế BIOS như Disk Manager của Ontrack hoặc EZ-Drive của Phoenix Technologies (Phoenix đã mua lại EZ-Drive, nhà sáng lập ra StorageSoft tháng l năm 2002) và các phần mềm OEM của họ (Drive Guide, MAXBlast, Data Lifeguard và các phần mềm khác). Tuy vậy tôi không khuyên bạn sử dụng những phần mềm này bởi vì chúng có thể gây ra nhiều vấn đề nếu bạn cần khởi động từ đĩa mềm hoặc đĩa CD hoặc nếu bạn cần sửa bản ghi khởi động chính (master boot record) phi chuẩn mà những sản phẩm này sử dụng.

Ổ đĩa ATA gắn trong lớn hơn 137GB yêu cầu phải có sự hỗ trợ địa chỉ khối logic (LBA: logical block address) 48-bit. Hỗ trợ này phải được cung cấp trong hệ điều hành; nó cũng có thể được cung cấp trong BIOS, hoặc cả hai. Tốt nhất là cả hai hệ điều hành và BIOS đều hỗ trợ nó, nhưng nếu chỉ một mình hệ điều hành hỗ trợ thì nó cũng có thể hoạt động được.

Hỗ trợ LBA 48-bit trong các hệ điều hành đòi hỏi:

Window 7/Vista.
Window XP với Service Pack l (SPI) hoặc các phiên bản sau đó.
Window 2000 với Sendee Pack 4 (SP4) hoặc các phiên bản sau đó.
Window 98/98SE/Me hay NT 4.0 vợi Intel Application Accelerator (IAA) được tải về.

Giải pháp này chỉ hoạt động nếu bo mạch chủ có chipset hỗ trợ IAA. Xem www.intel.com/support/chipset/IAA/instruct.htm để biết thêm thông tin.

Hỗ trợ LBA 48-bit trong BIOS yêu cầu :

Một BIOS bo mạch chủ có hỗ trợ LBA 48 bít (thường là các phiên bản có từ tháng 9 năm 2002 hoặc sau đó).

Nếu có cả hệ điều hành máy tính và BIOS đều hỗ trợ cho LBA 48 bít, bạn có thể đơn giản gắn và sử dụng ổ đĩa giống như bất kỳ ổ đĩa gắn trong nào. Mặt khác, nếu không có sự hỗ trợ LBA 48 bít trong BIOS, nhưng hệ điều hành có phần ổ đĩa vượt quá 137GB sẽ không được nhận ra hoặc không thể truy cập cho đến khi hệ điều hành được tải xong. Điều này có nghĩa là nếu đang cài đặt hệ điều hành vào một ổ cứng trắng và nạp hệ điều hành từ một CD XP đầu tiên (pre-SPl) hoặc các phiên bản trước đó, bạn cần phải phân vùng lên đến 137GB đầu tiên của ổ đĩa ở lần cài đặt. Sau khi hệ điều hành được cài đầy đủ và các gói dịch vụ đã được thêm vào, phần còn lại của ổ đĩa trên mức 137GB sẽ được nhận. Tại điểm này, sau đó bạn có thể hoặc là phân vùng phần còn lại của ổ đĩa (phần hơn 137GB) bằng cách sử dụng các công cụ XP Disk Management, hoặc sử dụng chương trình phân vùng của nhóm thứ ba như PartitionMagic hay Partition Commander để sắp xếp lại kích cỡ phân vùng đầu tiên để sử dụng toàn bộ ổ đĩa.

Nếu đang khởi động từ CD XP SPl hoặc từ CD phiên bản sau (nghĩa là một đĩa CD có Service Pack l đã tích hợp sẵn), bạn có thể nhận ra và truy cập toàn bộ ổ đĩa trong quá trình cài đặt hệ điều hành và phân vùng toàn bộ ổ đĩa khi một vùng đơn lớn hơn 137GB nếu muốn.

Nếu cần nhiều kết nối giao diện hoặc kết nối giao diện SATA hoặc PATA nhanh hơn, bạn có thể sử dụng các card bổ sung từ các công ty như là Promise Technologies (vvwvv.promise.com). Các card này hỗ trợ ổ đĩa lên đến và hơn giới hạn 137GB bị áp đặt bởi chuẩn ATA-5 và cũ hơn.

Lưu ý rằng các ỗ đĩa USB. FireWire không có các vấn đề về dung lượng này bởi vì chúng không dựa vào sự hỗ trợ của ROM BIOS và thay vào đó chúng sử dụng trình điều khiển được quản lý bởi hệ điều hành.

Ổ đĩa SCSI được thiết kế từ sự bắt đầu với ít giới hạn hơn ổ đĩa ATA, đó là tại sao ổ đĩa SCSI thường được sử dụng trong các máy chủ tập tin tốc độ cao, các máy workstation và trong các hệ thống máy tính tốc độ cao khác. Mặc dù ổ đĩa SCSI được tạo ra trước ổ ATA, các nhà sáng tạo đã lo xa cho phép ổ SCSI định địa chỉ các thiết bị lên đến 2.2TB (hàng Terabyte, hay một nghìn tỷ byte) dung lượng (232 sector). Vào năm 2001, bộ lệnh SCSI được nâng cấp hơn nữa để hỗ trợ các ổ đĩa lên đến 9.44ZB (hàng zettabvte, hav một ngàn lũy thừa bảy byte) dung lượng (264 sector). Bởi vì ổ SCSI bước đầu được thiết kế với ghi nhận ít giới hạn hơn và tốc độ lớn hơn, các nhà sản xuất theo truyền thống đã tung ra các ổ đĩa có dung lượng lớn nhất của họ ở các phiên bản SCSI đầu tiên. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của ổ Serial ATA thì khoảng cách nhanh chóng được thu hẹp.

hạn chế của bios

Do những thay đổi trong năm 2001 đối với cả hai ổ ATA và SCSI, sẽ phải mất nhiều năm trước khi các giới hạn về dung lượng của một trong hai giao diện trên trở thành vấn đề.

Các giới hạn của hệ điều hành

Nhiều hệ điều hành gần đây như Windows Vista và Window 7, may mắn là không có bất kỳ vấn đề nào với các ổ đĩa dung lượng lớn. Tuy nhiên các hệ điều hành cũ có thể có các hạn chế khi chúng được dùng chung với các ổ đĩa dung lượng lớn.

Windows XP và cũ hơn bị hạn chế dung lượng tới 2TB cho mỗi ổ đĩa vật lý hay logic (đó là RAID), bao gồm tất cả phân vùng. Đó là do dựa trên chương trình phân vùng MBR (master boot record), dùng số sector 32 bít, giới hạn ổ đĩa vật lý hay logic đến số tối đa 232 (4,294.967,296) sector. Windows 7 và Vista hỗ trợ chương trình phân vùng mới hơn được gọi là GUID (Globallv Unique ID) Partition Table (GPT), xác định sector dùng các số 64 bít, hỗ trợ 264 (18.446.744.073.709.551.616) sector, cho dung lượng tối đa 18EB (exabytes). Trong thuật ngữ ứng dụng, điều này có nghĩa là nếu laptop hay PC của bạn đang chạy XP, bạn không thể sử dụng nhiều hơn một ổ đĩa 2TB hay mảng RAID nhiều ổ đĩa. Cho ví dụ, nếu bạn mua bốn ổ đĩa 1TB và dùng chúng đề tạo ra một mảng 3TB RAID 5 (ổ đĩa logic). Windows XP và cũ hơn sẽ không nhận ra và có khả năng phân vùng 2TB đầu tiên của ổ đĩa logic 3TB.

Windows 98 hỗ trợ các ổ đĩa lớn, nhưng một lỗi trong chương trình FDISK được bao gồm trong Windows 98 làm giảm dung lượng ổ đĩa được báo cáo khoảng 64GB cho các ổ đĩa vượt dung lượng đó. Giải pháp là một phiên bản nâng cấp FDISK có thể được tải về từ Microsoft. Lỗi khác xuất hiện trong lệnh FORMAT của Windows 98: nếu bạn chạy FORMAT từ một dấu nhắc lệnh trên một phân vùng hơn 64GB, kích cỡ sẽ không được báo cáo chính xác, mặc dù toàn bộ phân vùng đã được định dạng.

Windows 95 có giới hạn dung lượng ổ cứng 32GB và không có cách nào xung quanh vấn đề này trừ khi nâng cấp lên Windows 98 hay các phiên bản mới hơn. Ngoài ra, các phiên bản bán lẻ hoặc nâng cấp của Windows 95 (còn được gọi là Windows 95 OSR 1 hoặc Windows 95a) vẫn còn bị giới hạn chỉ sử dụng hệ thống tập tin FAT16 (bảng định vị tệp 16 bít), đạt tới giới hạn kích cỡ phân vùng tối đa 2GB. Vì vậy, nếu có một ỗ đĩa 30GB, bạn buộc phải chia chúng thành 15 phân vùng 2GB, mỗi phân vùng xuất hiện như là một mẫu tự ổ đĩa riêng (ví dụ ổ đĩa C: – Q: trong ví dụ này). Windows 95B và 95C sử dụng hệ thống tập tin FAT32, cho phép các kích cỡ phân vùng lên đến 2TB. Lưu ý rằng vì các hạn chế bên trong, không có phiên bản FDISK nào có thể tạo các phân vùng lớn hơn 512MB.

Ngoài ra, hệ điều hành DOS thông thường không nhận ra các ổ đĩa lớn hơn 8.4GB bởi vì những ổ đĩa này được truy cập bằng cách sử dụng LBA, các phiên bản hệ điều hành DOS 6.X và thấp hơn chỉ sử dụng định địa chỉ CHS.