Lịch sử ra đời của bộ vi xử lý trước khi có PC
MOS Technologies đã giới thiệu chiếc 6502 quan trọng vào năm 1976, các kỹ sư từng làm việc với con chip 6800 đầu tiên của Motorola đã thiết kế ra con chip này.
Đặc trưng của 6502
6502 là bộ xử lý 8 bit giống như 8080, nhưng có giá bán khoảng $25, trong khi 8080 có giá khoảng $300 khi được giới thiệu. Giá cả đã hấp dẫn Steve Wozniak, người đặt con chip trong thiết kế Apple I và Apple ][/][+ của ông. Con chip cũng được dùng trong những hệ thống của nhà sản xuất hệ thống Commodore và hệ thống khác. 6502 và thành công của nó cũng được dùng trong thiết bị điều khiển trò chơi, trong số đó bao gồm hệ thống giải trí Nintendo (NES: Nintendo Entertainment System) đầu tiên. Motorola tiếp tục tạo ra 68000 series, trở thành thành phần chính cho dòng máy tính Apple Macintosh. Các Mac thế hệ thứ hai dùng chip PowerPC, cũng do Motorola tạo và là kế tiếp đối với 68000 series. Tất nhiên, Mac hiện thời chọn kiến trúc PC, dùng cùng các bộ xử lý, các chipset, những thành phần khác như các PC.
Là những con chip cho thế hệ máy tính đầu tiên
Tất cả con chip ban đầu này chuẩn bị cho những bộ xử lý PC đầu tiên. Intel giới thiệu 8086 vào tháng 6 năm 1978. Con chip 8086 mang bộ tập lệnh x86 đầu tiên, bộ tập lệnh vẫn hiện diện trong những con chip tương thích x86 như là Core i Series và AMD Phenom II. Một cải tiến gây chú ý vượt qua các con chip trước, 8086 là thiết kế 16 bit đủ với những thanh ghi nội bộ 16 bit và một bus dữ liệu 16 bit. Có nghĩa là nó có thể hoạt động trên dữ liệu và các số 16 bit bên trong và cũng truyền 16 bit cùng lúc vào ra con chip. 8086 chứa 29,000 bóng bán dẫn và chạy lên tới 5MHz. Con chip cũng dùng định địa chỉ 20 bit nên có thể trực tiếp xử lý lên tới 1 MB bộ nhớ. Mặc dù không trực tiếp tương thích ngược với 8080, các tập lệnh và ngôn ngữ 8086 thì rất giống và cho phép các chương trình cũ được chuyển đổi để nhanh chóng hoạt động.
Số phận của Intel và Microsoft bị thay đổi đột ngột năm 1981 khi IBM giới thiệu IBM PC, trên cơ sở bộ xử lý Intel 8088 4.77MHz chạy hệ điều hành Microsoft Disk (MS-DOS) 1.0. Từ đó quyết định số phận được hình thành để dùng bộ xử lý Intel trong PC đầu tiên này. những hệ thống tương thích PC tiếp theo sau dùng hàng loạt bộ xử lý Intel hay tương thích Intel, với khả năng chạy phần mềm bộ xử lý trước đó.
Mặc dù 8086 là con chip tuyệt vời song nó đòi hỏi thiết kế bo mạch chủ 16 bit mắc tiền và thiết bị phụ thuộc hỗ trợ. Để làm giảm chi phí, năm 1979 Intel phát hành phiên bản không đầy đủ của 8086 được gọi là 8088. Bộ xử lý 8088 có nhân tương tự như 8086, thanh ghi 16 bit, có thể định địa chỉ bộ nhớ 1 MB, nhưng bus dữ liệu ngoài chỉ còn 8 bit. Điều này cho phép hỗ trợ những chip 8085 8 bit, bo mạch chủ và hệ thống ít mắc tiền. Đây là những lý do mà IBM chọn 8088 thay cho 8086 trong PC đầu tiên.
Quyết định này tác động đến lịch sử ở vài phương diện. Do có sự tương thích phần mềm đầy đủ như 8086, nên 8088 có thể chạy phần mềm 16 bit. Cũng vậy, do bộ tập lệnh rất giống 8085 và 8080, các chương trình được viết cho những chip cũ có thề nhanh chóng và dễ dàng được sửa đổi để vận hành trên 8088. Điêu này cho phép thư viện chương trình lớn được thực hiện cho IBM PC, do vậy nó trở nên thành công. Sự thành công doanh thu vượt trội của IBM PC còn ở tính tương thích ngược về trước của nó. Để duy trì đà này, Intel bị buộc duy trì sự tương thích ngược với 8088/8086 trong phần lớn bộ xử lý mà họ phát hành từ thời điểm này.
Comments are closed.